Bước tới nội dung

Circus (album của Britney Spears)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Circus
Bìa bản tiêu chuẩn[a]
Album phòng thu của Britney Spears
Phát hành28 tháng 11 năm 2008 (2008-11-28)
Thu âm
  • 8 tháng 11, 2006[b] – Tháng 9, 2008
Phòng thu
Thể loại
Thời lượng46:15
Hãng đĩaJive
Sản xuất
Thứ tự album của Britney Spears
Blackout
(2007)
Circus
(2008)
The Singles Collection
(2009)
Đĩa đơn từ Circus
  1. "Womanizer"
    Phát hành: 26 tháng 9, 2008
  2. "Circus"
    Phát hành: 2 tháng 12, 2008
  3. "If U Seek Amy"
    Phát hành: 10 tháng 3, 2009
  4. "Radar"
    Phát hành: 22 tháng 6, 2009

Circus là album phòng thu thứ sáu của ca sĩ người Mỹ Britney Spears, phát hành ngày 28 tháng 11 năm 2008 bởi Jive Records. Khác với phong cách âm nhạc mang hơi hướng "đen tối và thành thị hơn" trong album thứ năm Blackout (2007), Spears muốn thực hiện dự án tiếp theo của mình sẽ "tuơi sáng hơn một chút". Cô thu âm phần lớn album từ tháng 3 đến tháng 9 năm 2008, sau khi bị đặt dưới quyền giám hộ không đồng thuận vào đầu năm đó, là kết quả từ những biến cố trong đời sống cá nhân của nữ ca sĩ được truyền thông rộng rãi vào năm 2007. Dưới cương vị điều hành sản xuất, Larry RudolphTeresa LaBarbera Whites tiếp cận với những cộng tác viên trước đây của Spears như Max Martin, Bloodshy & Avant, Guy SigsworthDanja, cũng như nhiều nhà sản xuất mới, bao gồm Dr. Luke, Benny BlancoClaude Kelly. Circus là một bản thu âm popdance kết hợp với một vài âm hưởng của electropop, trong đó nội dung lời bài hát đề cập đến sự nổi tiếng, phản bội và mê đắm.

Được nhìn nhận như đĩa hát đánh dấu sự trở lại của Spears, Circus đa phần tiếp nhận những ý kiến tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao khâu sản xuất nhưng cũng vấp phải nhiều quan điểm trái chiều về nội dung lời bài hát và giọng hát của Spears. Tuy nhiên, album là một thành công thương mại lớn trên toàn cầu, đứng đầu các bảng xếp hạng ở Canada, Hy Lạp, Nga và Thụy Sĩ, đồng thời lọt vào top 10 ở hầu hết những thị trường khác, bao gồm vươn đến top 5 ở Úc, Áo, Đan Mạch, Pháp, Ireland, Nhật Bản và Vương quốc Anh. Tại Hoa Kỳ, Circus ra mắt vị trí số một trên bảng xếp hạng Billboard 200 với 505,000 bản, trở thành album quán quân thứ năm của Spears và giúp cô lập kỷ lục là nghệ sĩ trẻ nhất đạt được thành tích trên. Album sau đó được chứng nhận ba đĩa Bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA), công nhận ba triệu đơn vị album tương đương được tiêu thụ tại đây. Tính đến tháng 9 năm 2009, Circus đã bán được hơn bốn triệu bản trên toàn thế giới.[3]

Bốn đĩa đơn đã được phát hành từ Circus, trong đó đĩa đơn đầu tiên "Womanizer" đứng đầu các bảng xếp hạng ở nhiều quốc gia, và là đĩa đơn có bước nhảy vọt lớn nhất lên vị trí số một trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 lúc bấy giờ. Đĩa đơn thứ hai "Circus" ra mắt và đạt vị trí thứ ba tại Hoa Kỳ, đồng thời trở thành đĩa đơn bán chạy thứ 10 trên toàn cầu trong năm 2009. Hai video ca nhạc cho "Womanizer" và "Circus" cũng nhận được bảy đề cử tại giải Video âm nhạc của MTV năm 2009, và chiến thắng một giải. Những đĩa đơn còn lại "If U Seek Amy" và "Radar" lần lượt đạt vị trí thứ 19 và 88 trên Billboard Hot 100. Để quảng bá album, Spears bắt tay thực hiện chuyến lưu diễn thế giới The Circus Starring Britney Spears (2009) với 97 đêm diễn đi qua Châu Âu, Bắc Mỹ và Châu Đại Dương, đã trở thành chuyến lưu diễn có doanh thu cao nhất trong sự nghiệp của Spears. Tại giải Grammy lần thứ 52, "Womanizer" nhận được một đề cử cho Thu âm nhạc dance xuất sắc nhất.

Tổng quan và phát triển

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong suốt năm 2007, sự nghiệp của Spears hoàn toàn bị lu mờ bởi những rắc rối trong đời sống cá nhân, bao gồm cả hậu quả của lối sống tiệc tùng quá mức và gặp khủng hoảng tâm lý, đỉnh điểm là việc cô cạo trọc đầu và bị giới truyền thông theo dõi sát sao.[4][5] Bất chấp những khó khăn, Spears phát hành album phòng thu thứ năm Blackout–được nhiều nhà phê bình coi là tác phẩm hay nhất và có tầm ảnh hưởng nhất của cô–vào tháng 10.[6][7][8] Tuy nhiên, đây là album phòng thu đầu tiên của cô không ra mắt ở vị trí số một trên bảng xếp hạng Billboard 200 tại Hoa Kỳ–ra mắt ở vị trí thứ hai–nhưng vẫn sản sinh "Gimme More", đĩa đơn đầu tiên của Spears lọt vào top 3 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 kể từ đĩa đơn quán quân đầu tay "...Baby One More Time" (1998).[9][10] Ngay khi phát hành, hành vi trước công chúng của Spears bắt đầu xung đột với hình ảnh của cô; Stephen Thomas Erlewine của AllMusic cho biết album đóng vai trò nhạc nền "cho những ngày tháng say xỉn, mơ hồ của Britney, phản ánh sự lăng mạ tràn lan mặt báo lá cải", đồng thời chỉ ra rằng album có sự mạch lạc mà Spears ngoài đời thực đang thiếu.[11]

Tháng 1 năm 2008, Spears từ chối trao con trai của cô cho người đại diện của chồng cũ Kevin Federline. Sau đó, nữ ca sĩ phải nhập viện tại Trung tâm Y tế Cedars-Sinai khi cảnh sát đến nhà cô và nghi ngờ cô đang bị ảnh hưởng bởi một chất không xác định. Ngày hôm sau, quyền thăm con của Spears bị bác bỏ tại phiên tòa khẩn cấp và Federline được trao quyền nuôi dưỡng hợp pháp và toàn diện đối với hai con trai của họ. Cô được đưa vào khoa tâm thần của Trung tâm Y tế Ronald Reagan UCLA và bị giam giữ tâm thần không tự nguyện theo luật của tiểu bang California. Tòa án đưa cô vào quyền giám hộ do cha cô Jamie Spears và luật sư Andrew Wallet đứng đầu, trao cho họ quyền kiểm soát toàn bộ tài sản của cô.[12] Cô được xuất viện năm ngày sau đó,[13][14] trong khi quyền giám hộ sẽ không chấm dứt đến tháng 11 năm 2021, sau cuộc chiến được công khai rộng rãi của Spears chống lại cha cô và những cá nhân liên quan đến quyền giám hộ.[15] Ngay khi bị đặt dưới sự giám hộ, quá trình thực hiện album phòng thu thứ sáu của Spears được bắt đầu. Do đó, việc phát hành "Radar" như đĩa đơn thứ tư từ Blackout bị hủy bỏ để Spears có thể tập trung vào Circus.[16]

Thu âm và sản xuất

[sửa | sửa mã nguồn]
"Một khi [Dr. Luke] và tôi ở phòng thu, anh ấy mở cho tôi nghe những bản nhạc đang làm cho [Britney], và sau đó chúng tôi xây dựng bài hát dựa trên cuộc sống của cô ấy vào thời điểm đó và cách mọi người nhìn nhận cô ấy. Đó là một cách tuyệt vời để khiến mọi người nhảy múa và vui vẻ, nhưng cũng có một thông điệp nhỏ ẩn chứa sau tất cả."

Nhà sản xuất Claude Kelly nói về quá trình phát triển, nội dung và ý tưởng Circus.[17]

Vào tháng 7 năm 2008, Spears xác nhận rằng cô đang trong quá trình thu âm cho album thứ sáu.[18][19] "Radar" ban đầu xuất hiện trong album trước của Spears là Blackout (2007), và được thu âm vào ngày 8 tháng 11 năm 2006, một ngày sau khi Spears đệ đơn ly hôn với Kevin Federline, tại Sony Music Studios ở Thành phố New York.[2] Bên cạnh thông báo về Circus, một loạt nhà sản xuất cũng được xác nhận tham gia cho album, như Sean Garrett, Guy Sigsworth, DanjaBloodshy & Avant.[20] Trong quá trình phát triển, Garrett và nhà sản xuất giọng hát Jim Beanz khen ngợi đạo đức nghề nghiệp của Spears sau những rắc rối đời tư bị truyền thông rộng rãi vào năm trước.[21][22] Spears đồng sáng tác bốn bài hát trong album và muốn phát triển một đĩa nhạc chịu nhiều ảnh hưởng từ nhạc pop hơn, với những cộng tác viên cô từng làm việc ở thời kỳ đầu sự nghiệp.[23] Cô nói rằng Circus là dự án cô bỏ ra nhiều thời gian để thu âm nhất, chỉ ra rằng: "Tôi nghĩ chất nhạc sẽ mang tính urban hơn [...] Tôi đang sáng tác mỗi ngày, ngay tại đây, bên cây đàn piano trong phòng khách này"[24] và cũng mô tả album là đĩa nhạc hay nhất của cô cho đến nay.[25]

Nhà sản xuất Claude Kelly cảm nhận sự thiếu hụt ý tưởng khi bắt đầu thực hiện Circus, nói rằng: "Khi tôi làm việc với [Dr. Luke], chúng tôi biết rằng phải viết một cái gì đó cho [Britney], nhưng không có ý tưởng cụ thể nào cả, chúng tôi chỉ biết phong cách của cô ấy và biết những gì cô ấy làm.[26] Max Martin, người thường xuyên cộng tác với Spears trong ba album phòng thu đầu tiên của cô ...Baby One More Time (1999), Oops!... I Did It Again (2000) và Britney (2001), sáng tác và sản xuất "If U Seek Amy". The Outsyders, một nhóm sản xuất đến từ Atlanta, sản xuất đĩa đơn mở đường "Womanizer",[27] trong khi Fernando Garibay thực hiện "Amnesia" và "Quicksand", nhưng cả hai đều không xuất hiện trong danh sách bài hát bản tiêu chuẩn.[28] Danja tiết lộ rằng anh đang thực hiện những bài hát tại Chalice Recording Studio ở Los Angeles, trước khi được Spears thu âm tại Glenwood Place Studios ở Burbank, California. Bộ ba người Canada Let's Go to War đồng sáng tác và sản xuất "Mmm Papi".[29] Guy Sigsworth, người Spears từng hợp tác cho đĩa đơn "Everytime", đã sản xuất hai bài hát trong album: bản ballad "My Baby" và "Out from Under", bản nhạc sau từng được thể hiện bởi Joanna Pacitti cho nhạc phim của bộ phim năm 2007 Bratz.[30] Lil Jon,[31] Rodney Jerkins,[32] Sean Garrett,[33]Taio Cruz[34] thông báo rằng họ đang làm việc với Spears, mặc dù những bài hát của họ không được đưa vào album.

Nhạc và lời

[sửa | sửa mã nguồn]
"Circus có chút tươi sáng hơn Blackout. Tôi nghĩ rất nhiều bài hát tôi làm lúc bấy giờ, khi đang trải qua giai đoạn thực sự đen tối trong cuộc đời, phản ánh điều đó. [...] Nhưng cả hai album là hai phong cách khác nhau. Blackout có phần tối và sắc sảo hơn, và mang tính urban hơn."

— Spears so sánh Circus với Blackout[23]

Circus là một bản thu âm popdance, được mô tả như phần tiếp theo của album phòng thu thứ năm của Spears Blackout (2007).[35][36][37] Nữ ca sĩ mô tả album sẽ "tươi sáng" hơn so với Blackout theo hướng urban.[23] Album được so sánh với những tác phẩm của Janet Jackson,[38] Eurythmics,[39]New Order,[40] cũng như những sáng tác của Prince,[39] Leiber & StollerPhil Spector.[40] Về phần lời, đĩa nhạc khai thác nhiều chủ đề từng được đề cập trước đây của Spears: "Circus" và "Kill the Lights" nói về danh tiếng như "Piece of Me" (2007),[37] trong khi "Womanizer" và "Shattered Glass" nói về người đàn ông lăng nhăng. Circus mở màn bằng đĩa đơn mở đường "Womanizer", với tiếng còi báo động và phần điệp khúc lặp đi lặp lại, trong khi nội dung đề cập đến một người đàn ông lừa dối; Spears mô tả bài hát như "thánh ca của thiếu nữ".[41] "Circus" nói lên cảm xúc của cô khi là một nghệ sĩ giải trí và biểu diễn, được nhấn mạnh trong những câu "All eyes on me in the centre of the ring just like a circus / When I crack that whip everybody gonna trip just like a circus".[l] Những yếu tố electronic dance của bài hát được PopJustice so sánh với đĩa đơn trước đó của Spears "Break the Ice" (2008).[42] Bản ballad "Out from Under" kết hợp phần đệm guitar mộc, trong khi "Kill the Lights" là một bản dance-pop nói về mâu thuẫn giữa Spears với thợ săn ảnh.[37] "Shattered Glass" sử dụng nhịp điệu điện tử đen tối và khai thác câu chuyện về một mối quan hệ không thể hàn gắn. "If U Seek Amy" mang phong cách pop truyền thống đầy quyến rũ,[43] nhưng vấp phải tranh cãi bởi cách chơi chữ kép ở tiêu đề, nghe giống như "F-U-C-K me".[44]

Spears trình diễn "Womanizer" trong chuyến lưu diễn the Circus Starring Britney Spears năm 2009

Bản electropop "Unusual You" nói về một người phụ nữ tìm thấy tình yêu bất ngờ, và được so sánh với chủ đề âm nhạc của thập niên 1980 và 1990. Được nhìn nhận như một "bản ballad sôi động", bài hát cũng được so sánh với "âm hưởng tựa thác nước lấp lánh vốn được khai phá bởi Janet Jackson".[38][45][46] Spears hát ở âm vực thấp hơn trong "Blur", kết hợp một số ẩm hưởng urban, trong đó lời bài hát gợi lại buổi sáng sau một đêm tiệc tùng: "Can't remember what I did last night/I gotta get my head right, where the hex am I? Who are you? What'd we do last night?";[m] bản nhạc có những điểm tương đồng với "Early Mornin" của In the Zone (2003).[35] "Mmm Papi" mang nhiều yếu tố của guitar go-go rock thập niên 1960, cũng như chủ đề Latin popdancehall.[45][47] Mặc dù mang bản chất "vui nhộn", bài hát bị chỉ trích vì dường như "gợi lại nhân cách Lolita của "...Baby One More Time".[48] Nhiều nhà phê bình cho rằng lời bài hát nói về Jamie, cha của Spears hoặc tay săn ảnh và cũng là bạn trai cũ của Spears Adnan Ghalib.[35] "Mannequin" là một bản dance-pop chịu nhiều ảnh hưởng của trip hop, được chú ý bởi chất nhạc "mạo hiểm" và "tương lai", nhưng giọng hát của Spears bị cho là "vô hồn".[49] "Lace and Leather" là một bản electro-funk được so sánh với "Janet Jackson thời kỳ Control", những tác phẩm của PrinceVanity 6 vào những năm 1980, với sự tham gia góp giọng nền của Kesha lúc chưa nổi tiếng.[39][50][51] "My Baby" với giọng hát nghe như "giả giọng Janet Jackson",[52] được Spears viết về hai người con trai của cô Sean Preston và Jayden James Federline.[35][38] Circus kết thúc với bản nhạc kèm theo "Radar", một bản electropop và Eurodisco với tiếng synthesizer mô phỏng sóng âm, được so sánh với "Tainted Love" (1981) của Soft Cell.[53][54] Trong lời bài hát, Spears nói với một người đàn ông rằng anh đang trong tầm ngắm của cô, đồng thời cô liệt kê những phẩm chất của anh.[55]

Tiêu đề và hình ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Spears bình luận về tiêu đề Circus: "Tôi thích thực tế rằng bạn luôn hồi hộp khi ở rạp xiếc. Bạn không bao giờ thấy chán [...] Bạn thực sự bị cuốn vào những gì diễn ra xung quanh mình. Và bạn muốn biết điều gì xảy ra tiếp theo."[23] Spears cũng tiết lộ rằng cô đặt tên cho album là Circus vì cuộc sống của cô như "một gánh xiếc" vào thời điểm đó.[56] Phần bìa album và tập sách ảnh được chụp bởi Kate Turning với hình tượng theo phong cách rạp xiếc.[57] Spears tiết lộ bìa album cùng với danh sách bài hát thông qua trang web chính thức của cô vào ngày 31 tháng 10 năm 2008.[58]

Phát hành và quảng bá

[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 9 năm 2008, Circus được thông báo sẽ phát hành vào ngày 2 tháng 12, trùng dịp sinh nhật thứ 27 của Spears[59] và có chung ngày phát hành với album mang tựa đề tương tự The Circus của nhóm nhạc Anh Take That.[60] Tuy nhiên, sau khi bị rò rỉ trái phép, imeem bắt đầu phát trực tuyến Circus vào ngày 25 tháng 11.[61] Để quảng bá album, Jive Records tạo ra một đường dây nóng để người hâm mộ gửi tin nhắn đến Spears, một vài trong số đó sẽ nhận được cuộc gọi trả lời từ cô.[62] Một số đoạn ngắn bài hát được giới thiệu trước qua trang web của đài phát thanh New York WKTUAmazon.[63] MTV phát sóng một bộ phim tài liệu dài 90 phút Britney: For the Record vào ngày 30 tháng 11, ghi lại quá trình trở lại của cô.[64] Vào tháng 5 năm 2009, trang web chính thức của Jive tổ chức "Cuộc thi Truyện hư cấu Toàn cầu", cho phép người tham gia gửi một câu chuyện dài 200 ký tự dựa trên một trong những bản nhạc của album.[65] Khán giả sẽ bỏ phiếu cho truyện ngắn yêu thích của họ, và tác phẩm được bình chọn nhiều nhất sẽ được sản xuất thành một video ca nhạc hoạt hình. Sau đó, câu chuyện chiến thắng dựa trên bài hát "Kill the Lights", và video được công chiếu vào ngày 27 tháng 7.[66]

Những màn trình diễn trở lại của Spears và hoạt động quảng bá cho Circus bắt đầu vào ngày 6 tháng 11 năm 2008, với sự xuất hiện khách mời trong đêm diễn tại Sân vận động Dodger thuộc chuyến lưu diễn Sticky & Sweet Tour (2008–2009) của Madonna. Ở giữa tiết mục "Human Nature", Spears lên sân khấu và hát với Madonna.[67] Một tuần trước khi phát hành album, Spears trình diễn ở một số quốc gia như là một phần của Circus Promo Tour. Vào ngày 27 tháng 11, Spears thể hiện "Womanizer" tại giải Bambi năm 2008 ở Offenburg, Đức, nơi cô được trao giải Ngôi sao nhạc Pop quốc tế xuất sắc nhất.[68] Ngoài ra, cô cũng trình diễn bài hát tại Star Academy ở Pháp vào ngày hôm sau và trên The X Factor ở Vương quốc Anh vào ngày 29 tháng 11.[69] Màn trình diễn của cô trên The X Factor nhận được gần 11,880,000 lượt xem ở Vương quốc Anh.[70] Spears ra mắt đĩa đơn thứ hai "Circus" với "Womanizer" tại Big Apple Circus trên Good Morning America vào ngày 2 tháng 12.[71][72] Ngày 16 tháng 12, cô biểu diễn trong chương trình Nghệ sĩ xuất sắc nhất năm 2008 của Nippon TV.[73]

Spears trình diễn "Circus" trong chuyến lưu diễn The Circus Starring Britney Spears năm 2009

Trong khi biểu diễn trên Good Morning America vào ngày 2 tháng 12, Spears công bố chuyến lưu diễn thế giới thứ năm của cô The Circus Starring Britney Spears. Ban đầu, cô tiết lộ chặng đầu tiên gồm 25 đêm diễn tại Hoa Kỳ và hai ngày tại Vương quốc Anh. Người quản lý lâu năm của cô, Larry Rudolph tuyên bố rằng chuyến lưu diễn sẽ "khiến mọi người kinh ngạc và hứa hẹn đem đến cho người hâm mộ Britney những trải nghiệm khó quên",[74] sau đó nói thêm: "cô sẽ biểu diễn hết mình trong toàn bộ chương trình — khoảng một tiếng rưỡi. Thật sự rất dữ dội. Đây là một chương trình đầy đủ, trọn vẹn của Britney Spears, và là tất cả những gì mọi người mong đợi từ cô ấy — và hơn thế nữa!".[75] Spears cũng rất phấn khích khi đưa những bài hát từ Blackout vào danh sách trình diễn, vì cô không đi lưu diễn để quảng bá album.[23] Chuyến lưu diễn bắt đầu vào ngày 3 tháng 3 năm 2009, tại Nhà thi đấu New Orleans ở New Orleans và kết thúc vào ngày 29 tháng 11, tại Trung tâm giải trí Adelaide ở Adelaide. Chuyến lưu diễn bao gồm bốn chặng: hai ở Bắc Mỹ, một ở Châu Âu và một ở Châu Đại Dương.[76] Sân khấu gồm ba vòng tròn và được thiết kế để tạo không khí như một rạp xiếc thực sự. Nhà thiết kế thời trang Dean and Dan Caten đảm nhận khâu trang phục. Một màn hình trụ khổng lồ được đặt phía trên sân khấu để chiếu video và phông nền. Phần hiệu ứng được cung cấp bởi Solotech. Danh sách trình diễn chủ yếu gồm những bài hát từ In the Zone (2003), BlackoutCircus. Vào tháng 6, Spears thông báo sẽ lưu diễn ở Úc lần đầu tiên; cô cũng được đồn đoán sẽ lưu diễn ở Nam Mỹ nhưng quản lý của cô Adam Leber đã phủ nhận tin dồn, mặc dù ê kíp cũng nỗ lực thực hiện hóa ý tưởng.[77]

Tranh cãi nổ ra trong chặng lưu diễn ở Úc, sau khi một số người hâm mộ bỏ về giữa chừng và cho rằng Spears hát nhép; những khiếu nại sau đó bị quản lý và nhà quảng bá của Spears phủ nhận.[78] Chuyến lưu diễn xếp thứ tư trong danh sách những chuyến lưu diễn có doanh thu cao nhất năm tại Bắc Mỹ, và là chuyến lưu diễn có doanh thu cao nhất trong năm của một nghệ sĩ hát đơn.[79] Vào tháng 2 năm 2010, Pollstar công bố 50 chuyến lưu diễn hàng đầu thế giới năm 2009; The Circus Starring Britney Spears là chuyến lưu diễn đạt doanh thu cao thứ năm trên toàn cầu, với tổng doanh thu là 131.8 triệu đô la.[80] Vào tháng 5 năm 2010, Hollyscoop xếp hạng chuyến lưu diễn ở vị trí thứ năm trong danh sách "15 chuyến lưu diễn có lợi nhuận cao nhất mọi thời đại của nữ nghệ sĩ".[81]

Đĩa đơn

[sửa | sửa mã nguồn]

"Womanizer" được phát hành làm đĩa đơn mở đường từ Circus vào ngày 26 tháng 9 năm 2008. Bài hát nhận được những phản hồi tích cực từ giới phê bình, trong đó họ khen ngợi phần điệp khúc và phần lời truyền cảm hứng, coi đây như màn tái xuất đúng nghĩa và là đĩa đơn "trở lại" của Spears.[82] Đĩa đơn ra mắt ở vị trí thứ 96 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 ở Hoa Kỳ, trước khi vươn lên vị trí cao nhất vào tuần sau, phá vỡ kỷ lục về bước nhảy vọt lớn nhất trên bảng xếp hạng.[83][n] "Womanizer" bán được hơn 3,500,000 lượt tải nhạc số tại Hoa Kỳ.[85] Trên thị trường quốc tế, đĩa đơn đạt vị trí số một tại Bỉ, Canada, Croatia, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Israel, Na Uy, Thụy Điển và Thổ Nhĩ Kỳ, và trên European Hot 100 Singles.[86][87][88][89][90] Tại giải Grammy lần thứ 52 (2010), bài hát nhận được đề cử cho Thu âm nhạc dance xuất sắc nhất.[91] Video ca nhạc cho "Womanizer" được công chiếu vào ngày 18 tháng 10, như phần tiếp theo của "Toxic" (2004); cả hai video đều do Joseph Kahn đạo diễn. Spears vào vai một người phụ nữ đã cải trang thành nhiều hình tượng khác nhau, và theo dõi bạn trai của cô trong nhiều hoạt động hằng ngày để vạch trần thói lăng nhăng của anh.[92] Video thắng giải Video Pop xuất sắc nhất và được đề cử cho Video của năm tại giải Video âm nhạc của MTV năm 2009.[93] "Womanizer" trở thành một trong những bản hit lớn nhất của Spears và được nhiều nghệ sĩ hát lại.[94]

"Circus" được phát hành dưới dạng đĩa đơn thứ hai từ album vào ngày 2 tháng 12 năm 2008.[95] Đĩa đơn ra mắt và đạt vị trí thứ ba trên Billboard Hot 100,[96] và bán được hơn 3,200,000 lượt tải nhạc số tại Hoa Kỳ.[85] Trên thị trường quốc tế, "Circus" đạt vị trí cao nhất trên Türkiye Top 20 và lọt vào top 10 ở Úc, Bulgaria, Canada, Đan Mạch, Hungary, Israel, New Zealand, Scotland và Thụy Điển.[97][98][99][100] Video ca nhạc đi kèm được đạo diễn bởi Francis Lawrence, trong đó Spears hóa thân thành một thủ lĩnh rạp xiếc, và trình diễn với nhiều nghệ sĩ biểu diễn khác ở rạp xiếc. Video được giới phê bình đánh giá cao, nhưng bị chỉ trích vì sự góp mặt của "những động vật được huấn luyện khắc nghiệt"; tuy nhiên, những khiếu nại sau đó bị bác bỏ.[95] Video được trao giải Video xuất sắc nhất trên Fuse TV,[101] và được đề cử cho ba giải Video âm nhạc của MTV năm 2009.[102]

"If U Seek Amy" được phát hành như đĩa đơn thứ ba từ Circus vào ngày 10 tháng 3 năm 2009. Do cách chơi chữ ở điệp khúc bài hát, Hội đồng Phụ huynh về Truyền hình và Truyền thông (PTC) đe dọa sẽ khiếu nại về hành vi khiếm nhã lên Ủy ban Truyền thông Liên bang (FCC) đối với bất kỳ đài nào phát bản nhạc từ 6 giờ sáng đến 10 giờ tối.[103] Một bản chỉnh sửa của bài hát, mang tên "If U See Amy", sau đó được Jive Records gửi đến đài phát thanh.[103] Đĩa đơn đạt vị trí thứ 19 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100,[104] giúp Circus trở thành album đầu tiên của Spears kể từ ...Baby One More Time sản sinh ba đĩa đơn lọt vào top 20. Trên thị trường quốc tế, "If U Seek Amy" đạt vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng Brasil Hot 100 Airplay, đồng thời lọt vào top 10 ở Bỉ, Israel, Malaysia và Mexico.[105][106][107][108] Video ca nhạc cho bài hát được đạo diễn bởi Jake Nava và phát hành vào ngày 12 tháng 3, với nội dung chế giễu văn hóa Mỹ.[109]

"Radar" ban đầu xuất hiện trong album phòng thu thứ năm của Spears Blackout (2007) và dự định sẽ phát hành làm đĩa đơn thứ tư. Tuy nhiên, kế hoạch bị hủy bỏ khi Spears bắt đầu thực hiện Circus và thay vào đó được phát hành dưới dạng đĩa đơn quảng bá vào năm 2008.[16] Sau đó, "Radar" được chọn làm bản nhạc bổ sung trong Circus và phát hành như đĩa đơn thứ tư vào ngày 5 tháng 6 năm 2009. Bài hát ban đầu lọt vào bảng xếp hạng Digital Songs ở vị trí thứ 52, với lượt tải nhạc số từ Blackout. Sau khi được xác nhận là đĩa đơn, "Radar" lọt vào Billboard Hot 100 ở vị trí thứ 90, và đạt vị trí thứ 88 vào tuần sau, trở thành đĩa đơn phát hành tại Hoa Kỳ có thứ hạng thấp nhất của Spears.[110] Video ca nhạc cho bài hát do Dave Meyers đạo diễn, trong đó Spears vào vai một quý tộc chơi polo tại một biệt thự và rơi vào mối tình tay ba với hai cầu thủ polo.[111]

Mặc dù không được chọn làm đĩa đơn, một số bản nhạc từ Circus đã xuất hiện trên những bảng xếp hạng phụ của Billboard khi phát hành. "Shattered Glass", đạt vị trí thứ 70 trên Billboard Hot 100, cao hơn cả đĩa đơn thực tế "Radar" . Ngoài ra, bài hát còn đạt vị trí thứ 29 trên Digital Songs và thứ 75 trên Canadian Hot 100.[87][112] "Shattered Glass" cũng lọt vào bảng xếp hạng Pop 100, đạt vị trí thứ 57.[113] "Lace and Leather" và "Mmm Papi" lần lượt đạt vị trí thứ 84 và 94 trên Pop 100.[113] "Out from Under" ra mắt ở vị trí thứ 40 trên Swedish Singles Chart vào ngày 14 tháng 8 năm 2009, đạt vị trí thứ 32 ở tuần tiếp theo và trụ vững trên bảng xếp hạng trong năm tuần.[114]

Tiếp nhận chuyên môn

[sửa | sửa mã nguồn]
Xếp hạng chuyên nghiệp
Điểm trung bình
NguồnĐánh giá
AnyDecentMusic?6.1/10[115]
Metacritic64/100[116]
Nguồn đánh giá
NguồnĐánh giá
AllMusic[117]
Entertainment WeeklyB[45]
The Guardian[49]
The Independent[118]
Los Angeles Times[119]
NME5/10[120]
Robert Christgau(2-star Honorable Mention)[121]
Rolling Stone[35]
Slant Magazine[122]
USA Today[123]

Sau khi phát hành, Circus nhận được những đánh giá tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc. Tại Metacritic, chuyên trang thống kê điểm trung bình từ những bài đánh giá chuyên môn của các nhà phê bình chính thống, album nhận được 64 trên 100 điểm dựa trên dựa trên 22 bài đánh giá, đông nghĩa với "đánh giá nhìn chung là tích cực".[124] Stephen Thomas Erlewine đưa ra nhận xét tích cực, mô tả đĩa nhạc là "bản làm lại thân thiện của Blackout vốn đầy khoái lạc", nhưng yêu thích album trước hơn vì "mượt mà và gây nghiện" hơn Circus.[117] Genevieve Koski của The A.V. Club ghi nhận Spears "đã thực sự nỗ lực vào những phần thể hiện trong Circus", thay vì "nghe có vẻ nhạt nhẽo" như trong Blackout.[125] Viết cho Digital Spy, Nick Levine cho rằng Spears "nghe tự tin hơn" so với Blackout.[126] Trong khi Chris Willman của Entertainment Weekly đánh giá cao quá trình sản xuất tổng thể của Circus, anh chỉ trích khuôn mẫu mới của Spears "khi đặt tiêu đề album đầy hứa hẹn về việc tiết lộ bản thân, nhưng thực tế lại không như kỳ vọng."[45] Robert Christgau trao cho Circus hai sao danh dự, nói rằng album "hầu như mang lại cảm giác vui vẻ".[127] Jon Pareles của The New York Times bày tỏ sự thích thú đối với chất nhạc "sắc nét" và kết hợp "những đoạn nhạc dạo hấp dẫn".[128] Caryn Ganz của Rolling Stone cho rằng "phong cách nhạc pop phiêu lưu, đậm chất câu lạc bộ" của Circus được xem như bản kế nhiệm xứng đáng cho album phòng thu thứ tư của cô In the Zone (2003).[35]

Viết cho USA Today, Steve Jones khen ngợi Spears vì "kiên cường" và "[biết] mình là ai với tư cách một ca sĩ" và không "[lãng phí] thời gian tìm kiếm định hướng nghệ thuật hoặc suy nghĩ quá nhiều về sức hấp dẫn của bản thân."[123] The Village Voice nhìn nhận Circus "không tốt hơn hoặc tệ hơn so với Discipline của Janet Jackson."[129] Alexis Petridis của The Guardian đưa ra đánh giá trái chiều hơn, cho rằng Spears "nghe hơi lạc lõng, thậm chí hơi buồn chán" xuyên suốt album, trong khi Blackout là một "album mạo hiểm, hết mình được thực hiện bởi người phụ nữ mà bản cáo phó của cô dường như đã được Associated Press chuẩn bị."[49] Một cây bút của The Independent đưa ra đánh giá tiêu cực, cho rằng cách truyền tải trong giọng hát của Spears nghe có vẻ vô cảm ở những bản nhạc nhịp độ trung bình và ballad.[118] Eric Henderson của Slant Magazine cũng có cảm xúc tương tự, cho rằng "sự tự thân" của album tạo nên cảm giác "rỗng tuếch" ở phần lớn bản thu âm.[122] Ann Powers của Los Angeles Times cảm thấy Circus đã "làm rất tốt" khi tuyên bố rằng "Spears vẫn là người phụ nữ trẻ đang cố gắng quản lý một tình huống bất khả thi."[119] Viết cho NME, Hamish MacBain cảm thấy thất vọng khi "Spears thực sự tệ trong việc thể hiện nét gợi cảm", đồng thời nói thêm rằng Circus là "nỗ lực thứ n để biến sự hỗn loạn về quá trình trưởng thành của Britney – người sẽ 27 tuổi vào tuần tới! – thành một sản phẩm pop nhếch nhác, tục tĩu cho người lớn."[120]

Thành tựu

[sửa | sửa mã nguồn]

Giải thường và đề cử

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Đề cử cho Giải thưởng Kết quả
2008 Giải thưởng âm nhạc Virgin Media Album xuất sắc nhất[130] Á quân
2009 Giải thưởng Bravo A-list Album hạng A[131] Đoạt giải
2009 Giải thưởng âm nhạc Hungary Album Dance-Pop quốc tế của năm[132] Đề cử
2009 Giải NME Album tệ nhất[133] Đề cử
2009 Premios Oye! Album tiếng Anh của năm[134] Đề cử
2010 Giải Juno Album quốc tế của năm[135] Đề cử

Danh sách cuối năm

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Đơn vị Danh sách Vị trí Ct.
2008 Billboard Lựa chọn của độc giả – Album xuất sắc nhất năm 2008
1
Top 100 Album năm 2008 của IFPI Thụy Sĩ Album xuất sắc nhất năm 2008
1

Diễn biến thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]
Một nghệ sĩ tóc vàng. Cô ấy đang dựa vào một cây cột, nắm cột bằng tay phải. Cô mặc chiếc áo ngực lấp lánh màu đen, quần short cạp cao và bốt cao gót buộc dây với tất lưới.
Spears trình diễn "Radar" trong chuyến lưu diễn the Circus Starring Britney Spears năm 2009

Tại Hoa Kỳ, Circus ra mắt ở vị trí số một trên bảng xếp hạng Billboard 200, với doanh số tuần đầu đạt 505,000 bản. Đây là doanh số mở màn cao thứ hai trong năm 2008 của một nghệ sĩ nữ, chỉ sau Fearless của Taylor Swift.[138] Album trải qua chín tuần trong top 10, trở thành album trụ hạng top 10 lâu nhất của Spears kể từ Oops!... I Did It Again (2000) với 23 tuần trong top 10.[139][140] Circus sau đó được chứng nhận ba đĩa Bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA) vào ngày 24 tháng 10 năm 2023, ghi nhận lượng tiêu thụ cán mốc ba triệu đơn vị album tương đương.[141] Album đứng thứ sáu trong danh sách Billboard 200 cuối năm 2009.[142] Theo Nielsen SoundScan, đĩa nhạc bán được 1.7 triệu bản tại Hoa Kỳ tính đến tháng 3 năm 2015.[143] Với hơn 51,000 đơn vị được bán ra trong tuần đầu tiên, Circus đứng đầu bảng xếp hạng Canadian Albums Chart, đánh dấu doanh số tuần đầu cao nhất của cô tại Canada kể từ Oops!... I Did It Again với 95,000 bản.[144] Trong vòng chưa đầy một tháng, Circus trở thành album bán chạy thứ chín trong năm 2008 tại đây, bán được 143,000 bản và là một trong mười album nhạc số bán chạy nhất năm với hơn 10,100 lượt tải.[145] Tháng 10 năm 2023, album được chứng nhận bốn đĩa Bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Canada (CRIA).[146] Tại Mexico, đĩa nhạc ra mắt ở ngôi vị quán quân trên bảng xếp hạng album quốc tế và vị trí thứ ba trên Top 100 Mexico, bán được hơn 46,000 bản và được chứng nhận Vàng bởi Hiệp hội các nhà sản xuất bản thu âm và Videograms ở Mexico, A.C. trong tuần đầu phát hành.[147][148]

Tại Châu Đại Dương, Circus đều gặt hái thành công, đạt vị trí thứ ba tại Úc và thứ sáu tại New Zealand.[149] Sau đó, album được chứng nhận hai đĩa Bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc (ARIA) và Bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm New Zealand (RIANZ).[150][151] Tại Nhật Bản, đĩa nhạc đạt vị trí thứ năm trên Oricon Albums Chart và được chứng nhận Vàng bởi Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản (RIAJ).[152][153] Tại Vương quốc Anh, Circus ra mắt và đạt vị trí thứ tư trên UK Albums Chart, trụ vững trên bảng xếp hạng trong 31 tuần,[149] và vị trí thứ bảy trên Scottish Albums Chart.[154] Album được chứng nhận Bạch kim bởi Ngành Công nghiệp Ghi âm Anh (BPI).[155] Tại Pháp, album bán được 18,319 bản trong hai ngày đầu tiên, ra mắt ở vị trí thứ năm.[156] Trên khắp Châu Âu, Circus thống trị bảng xếp hạng ở Nga, Thụy Sĩ, bảng xếp hạng album quốc tế ở Hy Lạp và European Top 100 Albums.[157][149][158][159] Ngoài ra, album vươn đến top 10 ở Áo, Bỉ, Đan Mạch, Pháp, Đức, Ireland, Ý, Hà Lan và Tây Ban Nha.[149] Tính đến tháng 9 năm 2009, album bán được hơn bốn triệu bản trên toàn cầu.[3][160]

Tranh cãi

[sửa | sửa mã nguồn]
"Không có hiểu lầm nào ở ca từ cả, và chắc chắn bài nhạc cũng không nói về cô Amy nào cả. Sẽ không vấn đề gì khi đưa vào CD một bài hát với phần lời thế này cho người hâm mộ thưởng thức, nhưng đây lại là chuyện khác khi bản nhạc được mở trên sóng phát thanh đại chúng, nhất là vào thời điểm trẻ em có thể lắng nghe."

—Chủ tịch PTC Tim Water nói về tranh cãi xung quanh lời bài hát "If U Seek Amy".[161]

Circus và những hoạt động xung quanh chiến dịch quảng bá album đã trở thành chủ đề của nhiều tranh cãi. Tranh cãi đầu tiên nổ ra vào ngày 5 tháng 12 năm 2008, khi trang web âm nhạc Úc Undercover.com.au đưa tin về một khiếu nại liên quan đến nội dung lời bài hát "If U Seek Amy" của Leonie Barsenbach, một bà nội trợ đến từ Sydney, người phát biểu rằng: "Tôi rất ngạc nhiên và hoàn toàn sửng sốt khi nghe hai đứa con 5 và 7 tuổi của tôi đi quanh nhà và hát 'F-U-C-K' ... Khi tôi hỏi về điều đó, chúng nói rằng đó là Britney Spears. Tôi đã rất bàng hoàng. Tôi mua cho chúng album Circus nhưng không hề có cảnh báo nào ... Điều này thật xúc phạm. Tôi thấy bị lừa dối."[162][163] Tác giả Daniel Kreps của Rolling Stone bảo vệ Spears, lập luận rằng cha mẹ nên biết về chủ đề bài nhạc của cô.[164] Sau khi "If U Seek Amy" được chọn làm đĩa đơn thứ ba từ album vào tháng 1 năm 2009, các đài phát thanh Hoa Kỳ đắn đo trong việc phát bài hát do những ẩn ý ở phần điệp khúc; WFLZ-FM đã tự sản xuất bản chỉnh sửa của bài hát, mang tên "If U See Amy".[165] Ngay sau đó, Hội đồng Phụ huynh về Truyền hình và Truyền thông (PTC) đe dọa sẽ đệ đơn khiếu nại về hành vi khiếm nhã lên Ủy ban Truyền thông Liên bang (FCC) đối với bất kỳ đài nào phát bài hát từ 6 giờ sáng đến 10 giờ tối.[166] RBR.com đưa tin rằng "Thật thú vị, Circus từng được đánh giá bởi Common Sense Media, một tổ chức khác với sứ mệnh giúp phụ huynh quản lý việc tiêu thụ tác phẩm truyền thông của con em họ. Tổ chức lại xếp hạng bài hát phù hợp với trẻ từ 13 trở lên, nhưng không đề cập cụ thể đến 'If U Seek Amy'. Thú vị hơn nữa, Chủ tịch FCC sắp nhậm chức Julius Genachowski lại là người sáng lập của Common Sense."[167]

Video ca nhạc cho bài hát chủ đề của Circus cũng vấp phải tranh cãi vì sử dụng động vật lạ. Ngày 9 tháng 12 năm 2008, tổ chức bảo vệ quyền động vật PETA đã ban hành một thông cáo báo chí để lên án Spears do sử dụng "sư tử và voi được huấn luyện cực đoan" và yêu cầu cô "dừng sử dụng động vật lạ trong video và đêm nhạc của mình, từ nay về sau". Spears trước đó từng bị tổ chức trên chỉ trích, sau khi cô sử dụng một con trăn bạch tạng và một con hổ nhốt lồng trong màn trình diễn "I'm a Slave 4 U" tại giải Video âm nhạc của MTV năm 2001. Kari Johnson đến từ Have Trunk Will Travel phản hồi: "[công ty] chưa từng đưa ra văn bản ủng hộ, cũng không dung túng cho việc sử dụng các thiết bị điện để kỷ luật và kiểm soát voi, trừ những tình huống ảnh hưởng đến an toàn của voi hoặc người. [...] Hiệp hội Nhân đạo Hoa Kỳ chịu trách nhiệm giám sát hoạt động của động vật trong phim và truyền hình. Một đại diện đã có mặt trên trường quay video 'Circus' của Britney Spears với những chú voi của chúng tôi, Tai và Kitty, để đảm bảo an toàn và phúc lợi cho chúng [...] Britney, đạo diễn, nhà sản xuất và toàn bộ đoàn làm phim đều tôn trọng nhu cầu và sự thoải mái của những chú voi và rất hân hạnh được làm việc cùng."[168]

Chặng lưu diễn tại Úc của The Circus Starring Britney Spears cũng gây tranh cãi sau buổi diễn mở màn tại Perth vào ngày 6 tháng 11 năm 2009, khi cây bút Rebekah Devlin của The Advertiser đưa tin rằng một số người hâm mộ đã bỏ về; họ bày tỏ sự "thất vọng" và "phẫn nộ" với việc Spears hát nhép và nhảy một cách hời hợt.[169] Nhà quảng bá chuyến lưu diễn tại Úc Paul Dainty phủ nhận mọi cáo buộc,[170] trong khi quản lý của Spears trả lời qua tài khoản Twitter cá nhân rằng: "Thật tiếc khi một nhà báo ở Perth không thích buổi diễn tối qua. May mắn thay, 18,272 người hâm mộ khác lại không như vậy"; Trang web chính thức của Spears cũng đăng tải danh sách gồm những đánh giá tích cực từ một số người hâm mộ.[171]

Danh sách bài hát

[sửa | sửa mã nguồn]
Circus – Bản tiêu chuẩn
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
1."Womanizer"K. Briscoe/The Outsyders3:43
2."Circus"3:12
3."Out from Under"Guy Sigsworth3:54
4."Kill the Lights"3:59
5."Shattered Glass"
  • Gottwald
  • Kelly
  • Levin
  • Dr. Luke
  • Blanco
  • Kelly[a]
2:53
6."If U Seek Amy"Martin3:37
7."Unusual You"Bloodshy & Avant4:23
8."Blur"
Danja3:09
9."Mmm Papi"3:22
10."Mannequin"
  • Mason, Jr.
  • Rob Knox
4:06
11."Lace and Leather"
  • Dr. Luke
  • Blanco[b]
2:48
12."My Baby"
  • Spears
  • Sigsworth
Sigsworth3:20
13."Radar" (bản nhạc bổ sung)
3:49
Tổng thời lượng:46:15
Circus – Bản trên Musicload tại Đức và bản Nhạc số tại Mexico (bản nhạc bổ sung)[172] [173]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
14."Rock Boy"
  • Hills
  • Araica
  • Tina Parol-Gemza
  • Michael Shimshack
Danja3:21
Tổng thời lượng:49:36
Circus – Bản tại Nhật và Vương quốc Anh (bản nhạc bổ sung)[174][175]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
14."Amnesia"
Garibay3:57
Tổng thời lượng:50:12
Circus – Bản cao cấp (bản nhạc bổ sung)
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
14."Rock Me In"
  • Kurstin
  • Morier[a]
3:17
15."Phonography"
  • Karlsson
  • Winnberg
  • Jonback
  • Muhammad
  • Nelson
  • Lewis
  • Smith
  • Bloodshy & Avant
  • The Clutch
3:35
Tổng thời lượng:53:07
Circus – Bản đặt trước trên iTunes Store tại Mỹ và bản cao cấp trên Amazon MP3 tại Pháp (bản nhạc bổ sung)
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
16."Trouble"
  • Karlsson
  • Winnberg
  • Jonback
  • Muhammad
  • Nelson
  • Lewis
  • Smith
  • Bloodshy & Avant
  • The Clutch
3:34
Tổng thời lượng:56:41
Circus – Bản cao cấp trên iTunes Store tại châu Âu (bản nhạc bổ sung)[176][177]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
16."Quicksand"
Garibay4:05
Tổng thời lượng:57:12
Circus – Bản Nhạc số ưu đãi trên Britney.com (bản nhạc bổ sung)
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
14."Phonography"
  • Karlsson
  • Winnberg
  • Jonback
  • Muhammad
  • Nelson
  • Lewis
  • Smith
  • Bloodshy & Avant
  • The Clutch
3:35
15."Amnesia"
  • Garibay
  • Livingston
Garibay3:57
16."Womanizer" (Kaskade Radio Edit #2)
  • Briscoe
  • Akinyemi
K. Briscoe/The Outsyders3:13
17."Womanizer" (Junior's Superstar Mix)
  • Briscoe
  • Akinyemi
K. Briscoe/The Outsyders7:30
Tổng thời lượng:65:30
Circus – Bản cao cấp (DVD kèm theo)
STTNhan đềThời lượng
1."Quá trình thực hiện Album"9:34
2."Womanizer" (director's cut) (video ca nhạc)3:54
3."Bộ sưu tập ảnh" 

Ghi chú

Thành phần thực hiện

[sửa | sửa mã nguồn]

Thành phần thực hiện được trích từ ghi chú của Circus.[29]

  • Rafael Akinyemi – sáng tác (bài 1)
  • All Sets – thiết kế
  • Marcella "Ms. Lago" Araica – kỹ sư bổ sung (bài 1), kỹ sư (bài 4, 8), phối khí (bài 4, 8), sáng tác (bài 8)
  • Stacy Barthe – sáng tác (bài 8)
  • Jim Beanz – kỹ sư bổ sung (bài 1), sáng tác (bài 4), sản xuất giọng hát (bài 4)
  • Matt Beckly – kỹ sư (bài 2), chỉnh sửa giọng hát (bài 2)
  • Arnthor Birgisson – sáng tác (bài 3)
  • Benny Blanco – trống (bài 2, 5 và 11), đàn phím (bài 2, 5 và 11), sản xuất (bài 2, 5 và 11), lập trình (bài 2, 5 và 11), sáng tác (bài 2, 5 và 11)
  • Bloodshy & Avant – bass (bài 7 và 13), kỹ sư (bài 7 và 13), guitar (bài 7 và 13), đàn phím (bài 7 và 13), phối khí (bài 7), sản xuất (bài 7 và 13), lập trình (bài 7 và 13), sáng tác (bài 7 và 13)
  • David Boyd – kỹ sư bổ sung (bài 10)
  • Luke Boyd – giọng nền (bài 8), sáng tác (bài 4)
  • Nikesha Briscoe – sản xuất (bài 1), sáng tác (bài 1)
  • Jim Carauna – kỹ sư bổ sung (bài 13)
  • Chad Carlisle – hỗ trợ kỹ sư (bài 2)
  • The Clutch – kỹ sư (bài 13), sản xuất (bài 13), sáng tác (bài 13)
  • Tom Coyne – master (tất cả bài)
  • Danja – sản xuất (bài 4 và 8), sáng tác (bài 4 và 8)
  • Brendan Dekora – kỹ sư (bài 1), hỗ trợ kỹ sư (bài 12), hỗ trợ phối khí (bài 12)
  • Cathy Dennis – giọng nền (bài 2)
  • Dr. Luke – trống (bài 2, 5 và 11), guitar (bài 2, 5 và 11), đàn phím (bài 2, 5 và 11), sản xuất (bài 2, 5 và 11), lập trình (bài 2, 5 và 11), sáng tác (bài 2, 5 và 11)
  • Pati Dubroff – trang điểm
  • Bojan "Genius" Dugić – kỹ sư (bài 1)
  • Laura Duncan – phục trang
  • Eric Eylands – hỗ trợ kỹ sư (bài 5, 6, 9 và 11)
  • James Fauntleroy II – sáng tác (bài 10)
  • Niklas Flyckt – phối khí (bài 13)
  • Serban Ghenea – phối khí (bài 1, 2, 5, 6 và 11)
  • Angela N. Golightly – điều phối sản xuất (bài 10)
  • Aniela Gottwald – hỗ trợ kỹ sư (bài 5 và 11)
  • Tatiana Gottwald – hỗ trợ kỹ sư (bài 2)
  • John Hanes – hỗ trợ kỹ sư Pro Tools (bài 1, 2, 5, 6 và 11)
  • Dabling Harward – kỹ sư (bài 10)
  • Leah Haywood – giọng nền (bài 3)
  • Wayne Hector – sáng tác (bài 3)
  • Jeri Heiden – chỉ đạo nghệ thuật
  • John Heiden – thiết kế
  • Andrew Hey – kỹ sư (bài 10)
  • Sam Holland – kỹ sư (bài 2, 5 và 11)
  • Anders Hvenare – phối khí (bài 7)
  • Steven Jacobi – quản lý sản xuất
  • Henrik Jonback – bass (bài 13), kỹ sư (bài 7 và 13), guitar (bài 7 và 13), sáng tác (bài 7 và 13)
  • Chris Kasych – hỗ trợ kỹ sư (bài 2, 5)
  • Claude Kelly – giọng nền (bài 2 và 5), sáng tác (bài 2 và 5), sản xuất giọng hát (bài 5)
  • Kinnda – giọng nền (bài 6)
  • Rob Knox – sản xuất (bài 10), sáng tác (bài 10)
  • Savan Kotecha – sáng tác (bài 6)
  • Alexander Kronlund – sáng tác (bài 6)
  • Derik Lee – hỗ trợ kỹ sư (bài 1)
  • Let's Go to War – nhạc cụ (bài 9), sản xuất (bài 9), lập trình (bài 9), sáng tác (bài 9)
  • Kasia Livingston – giọng nền (bài 7), sáng tác (bài 7)
  • Myah Marie – giọng nền (bài 2)
  • Max Martin – giọng nền (bài 6), sản xuất (bài 6), lập trình (bài 6), sáng tác (bài 6)
  • Tony Maserati – phối khí (bài 9)
  • Harvey Mason, Jr. – phối khí (bài 10), sản xuất (bài 10), sáng tác (bài 10)
  • Chris McMillan – làm tóc
  • Nicole Morier – giọng nền (bài 9), sáng tác (bài 9), sản xuất giọng hát (bài 9)
  • Jackie Murphy – chỉ đạo nghệ thuật
  • Candice Nelson – giọng nền (bài 13)
  • Jared Newcomb – hỗ trợ kỹ sư (bài 4 và 8), hỗ trợ phối khí (bài 4 và 8)
  • Debi Nova – giọng nền (bài 11)
  • The Outsyders – sản xuất (bài 1)
  • Andy Page – guitar mộc (bài 3 và 12), lập trình trống (bài 3 và 12), guitar điện (bài 3 và 12), kỹ sư (bài 3 và 12), phối khí (bài 3 và 12), piano (bài 12), synth bass (bài 3), synthesizer (bài 12), dàn dây (bài 12)
  • Shelly Peiken – sáng tác (bài 3)
  • Tim Roberts – hỗ trợ phối khí (bài 1, 2, 5, 6 và 11)
  • Larry Rudolph – điều hành sản xuất, quản lý
  • Anna Schoenberger – thiết kế đạo cụ
  • Kesha Sebert – giọng nền (bài 11)
  • Shellback – lập trình (bài 6), sáng tác (bài 6)
  • Guy Sigsworth – lập trình trống (bài 3), nhạc mẫu (bài 3), đàn phím (bài 3), sản xuất (bài 3 và 12), sáng tác (bài 12), dàn dây (bài 3)
  • Britney Spears – sáng tác (bài 9, 10 và 12), giọng hát (tất cả bài)
  • Nick Steinhardt – thiết kế
  • Ron Taylor – biên tập Pro Tools (bài 4 và 8)
  • Valente Torrez – hỗ trợ kỹ sư (bài 3), hỗ trợ phối khí (bài 3)
  • Kate Turning – hình ảnh
  • Windy Wagner – giọng nền (bài 5)
  • Seth Waldmann – kỹ sư (bài 6)
  • Henry Walter – kỹ sư (bài 9)
  • Eric Weaver – kỹ sư bổ sung (bài 9), hỗ trợ kỹ sư (bài 2, 5 và 11)
  • Teresa LaBarbera Whites – A&R, điều hành sản xuất
  • Chris Worthy – guitar (bài 9)
  • David "Touch" Wright – điều phối sản xuất (bài 10)
  • Emily Wright – kỹ sư (bài 2, 5 và 11), chỉnh sửa giọng hát (bài 2, 5 và 11)
  • Andrew Wyatt – kỹ sư (bài 7)

Xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]

Chứng nhận

[sửa | sửa mã nguồn]
Quốc gia Chứng nhận Số đơn vị/doanh số chứng nhận
Argentina (CAPIF)[234] Vàng 20.000^
Úc (ARIA)[150] 2× Bạch kim 140.000^
Bỉ (BEA)[236] Vàng 15.000*
Brasil (Pro-Música Brasil)[238] Vàng 30,000[237]
Canada (Music Canada)[146] 4× Bạch kim 320.000double-dagger
Pháp (SNEP)[240] Vàng 200,000[239]
GCC (IFPI Trung Đông)[241] Vàng 3.000*
Đức (BVMI)[242] Vàng 150.000^
Hy Lạp (IFPI Hy Lạp)[243] Vàng 7.500^
Hungary (Mahasz)[244] Vàng 3.000^
Ireland (IRMA)[245] Bạch kim 15.000^
Ý (FIMI)[247] 40,000[246]
Nhật Bản (RIAJ)[248] Vàng 150,000[160]
México (AMPROFON)[148] Vàng 40.000^
New Zealand (RMNZ)[151] Bạch kim 15.000^
Ba Lan (ZPAV)[249] Vàng 10.000*
Nga (NFPF)[250] 2× Bạch kim 40.000*
Thụy Sĩ (IFPI)[251] Vàng 15.000^
Anh Quốc (BPI)[252] Bạch kim 300.000^
Hoa Kỳ (RIAA)[141] 3× Bạch kim 3.000.000double-dagger
Tổng hợp
Toàn cầu 4,000,000[3][160]

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.
double-dagger Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ+phát trực tuyến.

Lịch sử phát hành

[sửa | sửa mã nguồn]
Khu vực Ngày Định dạng Phiên bản Hãng đĩa Ct
Đan Mạch 28 tháng 11, 2008 CD Tiêu chuẩn Sony [253]
Pháp
  • Tiêu chuẩn
  • cao cấp
Jive [254][255]
Đức Sony [256][257][258]
Úc 29 tháng 11, 2008
  • CD
  • CD+DVD
[259][260]
Ba Lan 1 tháng 12, 2008 CD Tiêu chuẩn [261]
Vương quốc Anh
  • CD
  • CD+DVD
  • tải nhạc số
  • Tiêu chuẩn
  • cao cấp
RCA [262][263]
Hoa Kỳ 2 tháng 12, 2008 Jive [264][265][266]
Nhật Bản 3 tháng 12, 2008
  • CD
  • tải nhạc số
Tiêu chuẩn BMG Japan [267][268]
25 tháng 3, 2009 CD+DVD Cao cấp [269]
Hoa Kỳ 28 tháng 11, 2019 Đĩa than (Độc quyền tại Urban Outfitters) Tiêu chuẩn Legacy [270]
7 tháng 1, 2021 Cassette (Độc quyền tại Urban Outfitters) [271]
31 tháng 3, 2023 Đĩa than (Đen) [272]
Úc 28 tháng 4, 2023 Đĩa than (Đỏ Opaque) Sony [273]
Đức [274]
Ba Lan [275]
Vương quốc Anh [276]
  1. ^ Bìa bản cao cấp có khung màu đỏ và xanh theo chiều ngược.[1]
  2. ^ "Radar" ban đầu xuất hiện trong album phòng thu thứ năm của Spears Blackout (2007), nghĩa là bài hát được thu âm trước phần còn lại của Circus, được thu âm vào ngày 8 tháng 11 năm 2006 tại Sony Music Studios ở Thành phố New York.[2]
  3. ^ Bài 1
  4. ^ a b Bài 13
  5. ^ Bài 2, 4 và 5
  6. ^ Bài 2, 3, 5–7, 9 và 11
  7. ^ a b Bài 6
  8. ^ Bài 9
  9. ^ Bài 10
  10. ^ Bài 1, 2, 8 và 12
  11. ^ Bài 12
  12. ^ Tạm dịch: "Mọi ánh mắt hướng về tôi, ở trung tâm sân khấu như trong rạp xiếc / Khi tôi quất chiếc roi da, mọi người sẽ được du ngoạn như trong rạp xiếc"
  13. ^ Tạm dịch: "Tôi không nhớ mình làm gì đêm qua/Tôi phải bình tĩnh lại, tôi đang ở đâu thế này? Bạn là ai? Chúng ta đã làm gì đêm qua?
  14. ^ Kelly Clarkson đã phá vỡ kỷ lục ba tháng sau đó với "My Life Would Suck Without You" (2009), đạt mức tăng vọt 97–1 trong tuần thứ hai.[84]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Spears, Britney (2008). Circus (bản cao cấp) (CD+DVD). Jive Records.
  2. ^ a b “The Clutch Talks How To Write a Hit Song”. AllHipHop. 22 tháng 4 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2023.
  3. ^ a b c “Britney Spears vendió un millón de copias de "Blackout". Voice of America. 30 tháng 5 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2013.
  4. ^ “Shock new details about Britney's infamous 2007 breakdown”. Fox News. 4 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2023 – qua News.com.au.
  5. ^ Vineyard, Jennifer (7 tháng 11 năm 2007). “Britney Spears Leaves Rehab”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2023.
  6. ^ Armstrong, Jennifer Keishin (25 tháng 10 năm 2017). “Britney Spears' 'Blackout' Turns 10: How Her Worst Year Gave Us Her Best Album”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2023.
  7. ^ Manders, Hayden (25 tháng 10 năm 2017). 'Blackout' Is Britney Spears' Best Album To Date–Deal With It”. Nylon. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2023.
  8. ^ Garland, Emma; Haidari, Niloufar; Kheraj, Alim; Medford, Grace; O'Neill, Lauren; Tamanna, Yusuf (25 tháng 10 năm 2017). “Ten Years On, 'Blackout' Is Britney Spears' Greatest Album to Date”. Vice. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2023.
  9. ^ a b "Britney Spears Chart History (Billboard 200)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập November 28, 2013.
  10. ^ 'More' Scores For Britney On Digital, Hot 100 Charts”. Billboard. 13 tháng 10 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2023.
  11. ^ Erlewine, Stephen Thomas. “Blackout – Britney Spears”. AllMusic. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2023.
  12. ^ McKay, Holly (28 tháng 10 năm 2008). “Britney Spears Under Permanent Conservatorship”. Fox News. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2014.
  13. ^ Blankstein, Andrew; Winton, Richard (7 tháng 2 năm 2008). “Spears is released from UCLA hospital psychiatric ward”. Los Angeles Times. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2010.
  14. ^ Day, Nate (30 tháng 4 năm 2021). “Britney Spears' father Jamie claims singer has dementia in court docs: report”. Fox News. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2021.
  15. ^ Melas, Chloe (12 tháng 11 năm 2021). “Britney Spears' conservatorship ends”. CNN. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2023.
  16. ^ a b Levine, Nick (27 tháng 7 năm 2009). “Britney Spears: 'Radar'. Digital Spy. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2023.
  17. ^ “A&R, Record Label / Company, Music Publishing, Artist Manager and Music Industry Directory”. Hit Quarters. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2011.
  18. ^ Stoynoff, Natasha (16 tháng 7 năm 2008). “Britney Spears Working and 'Having Fun' on New Album”. People. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2022.
  19. ^ Vena, Jocelyn (29 tháng 10 năm 2008). “Britney Spears' Dad Gets Permanent Conservatorship”. HuffPost. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2013.
  20. ^ “Britney Spending Summer In The Studio”. Billboard. 17 tháng 7 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2022.
  21. ^ Laudadio, Marisa (21 tháng 5 năm 2008). “Producer: Britney Is 'Really Shaping Up'. People . Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2011.
  22. ^ “Exclusive: Britney Spears Recording New Album”. OK!. 28 tháng 6 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2011.
  23. ^ a b c d e Vena, Jocelyn (20 tháng 11 năm 2008). “Britney Spears Explains Why Circus Is 'Lighter' And Less Edgy Than Blackout”. MTV News. Viacom. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2011.
  24. ^ “World Exclusive: Britney Reveals All!”. OK!. Northern & Shell. 12 tháng 8 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2013.
  25. ^ Kaufman, Gil (13 tháng 8 năm 2008). “Britney Spears Says New Album Is Her 'Best Work Ever,' Describes Shock Of Jamie Lynn's Pregnancy”. MTV News. Viacom. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2011.
  26. ^ “A&R, Record Label / Company, Music Publishing, Artist Manager and Music Industry Directory”. Hit Quarters. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2011.
  27. ^ Vineyard, Jennifer (15 tháng 9 năm 2008). “Britney Spears' New Album, Circus, Slated For December 2 Release”. MTV News. Viacom. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2011.
  28. ^ “Works”. F2 Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2008.
  29. ^ a b Spears, Britney (2008). Circus (CD). Jive Records.
  30. ^ “Britney Spears Returns”. Rolling Stone. 11 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2024.
  31. ^ Vineyard, Jennifer (11 tháng 9 năm 2008). “Britney Spears' collaborators talk about new album”. MTV News. Viacom. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2013.
  32. ^ “Spears wants child-friendly home”. BBC News. BBC. 1 tháng 7 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2008.
  33. ^ Halperin, Shirley (16 tháng 7 năm 2008). “Confirmed: Britney Spears working on new album”. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2013.
  34. ^ “Taio Cruz z Britney Spears i Justinem Timberlakiem” [Taio Cruz with Britney Spears and Justin Timberlake]. Wirtualne Media (bằng tiếng Ba Lan). 6 tháng 7 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2023.
  35. ^ a b c d e f Ganz, Caryn (12 tháng 12 năm 2008). “Circus”. Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2020.
  36. ^ Young, Alex (5 tháng 12 năm 2008). “Britney Spears – Circus”. Consequence of Sound. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2020.
  37. ^ a b c Levine, Nick (10 tháng 11 năm 2008). “E Notes on the new Britney album”. Digital Spy. Hearst Corporation. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2013.
  38. ^ a b c Powers, Ann (6 tháng 12 năm 2008). “Album review: Britney Spears' 'Circus'. Los Angeles Times. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2008.
  39. ^ a b c “Lighter, brighter Circus”. Canoe. 2 tháng 12 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2008.Quản lý CS1: URL hỏng (liên kết)
  40. ^ a b “Album: Britney Spears, Circus (Zomba/Sony)”. The Independent. 28 tháng 11 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2009.
  41. ^ “Britney Spears Calls New Song 'A Girl Anthem'. People . 29 tháng 9 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2008.
  42. ^ “It's some Britney bits”. PopJustice. 11 tháng 11 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2013.
  43. ^ Levine, Nick (10 tháng 11 năm 2008). “Notes on the new Britney album – Music The Sound”. Digital Spy. Hearst Corporation. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2011.
  44. ^ “Britney Spears' 'If U Seek Amy' Poses Censorship Problems For Radio”. MTV News. Viacom. 12 tháng 1 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2013.
  45. ^ a b c d Willman, Chris (29 tháng 11 năm 2008). “Circus Review”. Entertainment Weekly . Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2013.
  46. ^ Willman, Chris (29 tháng 11 năm 2008). “Circus Review”. Entertainment Weekly. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2011.
  47. ^ “Interview with Nicole Morier”. HitQuarters. 23 tháng 8 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2010.
  48. ^ Petridis, Alexis (28 tháng 11 năm 2008). “Review: Britney Spears: Circus”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2008.
  49. ^ a b c Petridis, Alexis (28 tháng 11 năm 2008). “CD Review: Britney Spears 'Circus' review”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2008.
  50. ^ Levine, Nick (12 tháng 2 năm 2008). “Britney Spears: 'Circus'. Digital Spy. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2020.
  51. ^ “Britney Spears: Circus (Album Review) – MuMuuse”. MuuMuse. 17 tháng 11 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2013.
  52. ^ Wener, Ben (4 tháng 12 năm 2013). “A better Britney doesn't make for a better Britney album: Soundcheck blog: Orange County Register”. The Orange County Register. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2011.
  53. ^ Vineyard, Jennifer (12 tháng 10 năm 2007). “Britney Spears' New Album, Blackout: A Track-By-Track Report”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2023.
  54. ^ “Decent early reviews of new Britney tracks”. Today.com. 12 tháng 9 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2022.
  55. ^ Chou, Kimberly (19 tháng 9 năm 2007). “Britney? Back”. The Michigan Daily. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2022.
  56. ^ Vineyard, Jennifer (15 tháng 9 năm 2008). “Britney Spears' New Album, Circus, Slated For December 2 Release”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2020.
  57. ^ “Britney Spears Photoshoot By Kate Turning For Circus Album 2008”. famousfix.com. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2020.
  58. ^ Vineyard, Jennifer (31 tháng 10 năm 2008). “Britney Spears Unveils 'Circus' Cover And Tracks”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2023.
  59. ^ Silverman, Stephen M. (15 tháng 9 năm 2008). “Britney to Release New Album on Her Birthday”. People. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2011.
  60. ^ “Take That set to spar with Spears”. BBC News. BBC. 14 tháng 10 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2013.
  61. ^ Kaufman, Gil (25 tháng 11 năm 2008). “Britney Spears' Circus Now Available For Streaming On Imeem”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2011.
  62. ^ “Mobile”. Britney.com. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2011.
  63. ^ Vena, Jocelyn (13 tháng 12 năm 2008). “Britney Spears Gives Fans A Taste Of Circus With Online Preview”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2013.
  64. ^ Vena, Jocelyn (9 tháng 10 năm 2008). “Britney Spears Documentary To Air November 30”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2013.
  65. ^ “Britney.com Global Fan Fiction Contest”. Britney.com. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 7 năm 2011.
  66. ^ “World Premiere: "Kill The Lights" Animated Video”. Britney.com. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2009.
  67. ^ “Britney joins Madonna on US stage”. BBC News. BBC. 7 tháng 11 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2008.
  68. ^ “Britney Spears to perform live at Bambi Awards, Germany”. The Pantagraph. Lee Enterprises. 26 tháng 11 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2013.
  69. ^ Tetteh, Sarah (22 tháng 10 năm 2008). “Britney Spears exclusive pictures: Singer prepares raunchy routine for X Factor”. Daily Mirror. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2013.
  70. ^ 'X Factor' hits 12.8m ratings high”. Digital Spy. Hearst Corporation. 30 tháng 11 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2013.
  71. ^ Piazza, Joe (2 tháng 12 năm 2008). “Britney Spears Makes TV Comeback On 'Good Morning America'. Daily News. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2013.
  72. ^ Vena, Jocelyn (2 tháng 12 năm 2008). “Britney Spears Wows Fans, Family With 'Good Morning America' Birthday Performance”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2013.
  73. ^ “Britney Spears Wows Japan TV fans With Womanizer Show”. Herald Sun. 17 tháng 12 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2013.
  74. ^ Kaufman, Gil (10 tháng 12 năm 2008). “Britney Spears Adds Circus Tour Dates Thanks To Strong Sales”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2013.
  75. ^ Vena, Jocelyn (3 tháng 3 năm 2009). “Britney Spears' Manager Calls Circus Tour A 'Pop Extravaganza'. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2013.
  76. ^ Kaufman, Gil (2 tháng 12 năm 2008). “Britney Spears To Kick Off Circus Tour In March”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2011.
  77. ^ Leber, Adam (25 tháng 7 năm 2009). “No South American leg”. Twitter. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2009.
  78. ^ “Britney Spears "Extremely Upset" By Australia Lip-Synch Controversy”. Rolling Stone LLC. 9 tháng 11 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2013.
  79. ^ Reinartz, Joe (30 tháng 12 năm 2009). “The Pollstar Top 50”. Pollstar. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2013.
  80. ^ “2009 Year End Top 50 Worldwide Concert Tours” (PDF). Pollstar. 2010. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 15 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2010.
  81. ^ Esmailian, Ani (21 tháng 5 năm 2010). “15 Most Profitable Female Tours Ever”. Stereotude. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2013.
  82. ^ Robinson, Peter (12 tháng 10 năm 2008). “Pop review: Britney Spears, Womanizer (JIVE)”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2010.
  83. ^ “Spears Scores Record-Setting Hot 100 Jump”. Billboard. 12 tháng 11 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2013.
  84. ^ Trust, Gary (15 tháng 12 năm 2009). “Best Of 2009: Part 1”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2013.
  85. ^ a b Trust, Gary (17 tháng 7 năm 2016). “Ask Billboard: Britney Spears' Career Sales & How Big a Hit Will 'Make Me' Be?”. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2019.
  86. ^ “Britney Spears – Womanizer” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop 50. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2023.
  87. ^ a b “Britney Spears Chart History (Canadian Hot 100)”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2023.
  88. ^ “Top Lista Hrvatskog Radija”. Croatian Radiotelevision. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2023.
  89. ^ “Top 20 - Türkiye”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2023.
  90. ^ “Hits of the World: Euro Singles Sales”. Billboard. 120 (51): 172. 20 tháng 12 năm 2008.
  91. ^ “Britney Spears”. Grammy Awards. The Recording Academy. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2023.
  92. ^ Vena, Jocelyn (17 tháng 10 năm 2008). “Britney Spears' 'Womanizer' Director Joseph Kahn Talks 'Toxic' Comparisons”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2013.
  93. ^ Kaufman, Gil (14 tháng 9 năm 2009). “Lady Gaga, Beyonce, Taylor Swift Light Up 2009 VMAs”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2023.
  94. ^ “Britney Spears – Womanizer Covers”. Genius. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2023.
  95. ^ a b Montgomery, James (5 tháng 12 năm 2008). “Britney Spears' 'Circus' Video – Check It Out Here!”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2013.
  96. ^ Hasty, Katie (10 tháng 12 năm 2008). “Britney's 'Circus' Debuts Atop Album Chart”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2010.
  97. ^ “Billboard Türkiye Chart History”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2023.
  98. ^ “Britney Spears – Circus”. ARIA Top 50 Singles. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2023.
  99. ^ “NMC Airplay TOP 10 Week08 (16.02.2009 - 22.02.2009)”. BAMP. Bản gốc lưu trữ 9 Tháng tư năm 2009. Truy cập 9 Tháng hai năm 2023.
  100. ^ “Media Forest: Airplay chart”. mediaforest.biz. Bản gốc lưu trữ 7 Tháng tư năm 2014. Truy cập 9 Tháng hai năm 2023.
  101. ^ “And The Best Of 2009 Winner Is...”. Billboard. 12 tháng 12 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2013.
  102. ^ “Complete List Of MTV Video Music Award Nominees”. MTV News. 4 tháng 8 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2023.
  103. ^ a b Hinckley, David (23 tháng 1 năm 2009). “Z100 needs Britney Spears to clean up”. Daily News. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2013.
  104. ^ “Britney Spears – Chart history”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2013.
  105. ^ "Brasil Hot 100 Airplay". Billboard Brasil (Brasil: bpp) (2): 96. April 2011.
  106. ^ “Britney Spears – If U Seek Amy” (bằng tiếng Pháp). Ultratop 50. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2023.
  107. ^ “Top 20 Most Streamed International Singles In Malaysia Week 21 (20/05/2022-26/05/2022)”. Recording Industry Association of Malaysia. 4 tháng 6 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2023 – qua Facebook.
  108. ^ “Desbanca Paulina Rubio a La Quinta Estación del primer lugar radial”. Monitor Latino. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2023.
  109. ^ Kreps, Daniel (12 tháng 3 năm 2009). “Britney Spears Premieres Video For Controversial "If U Seek Amy"”. Rolling Stone. ISSN 0035-791X.
  110. ^ “Britney Spears – Radar charts”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2013.
  111. ^ Vena, Jocelyn (1 tháng 7 năm 2009). “Britney Spears' New 'Radar' Video Leaks”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2013.
  112. ^ “Britney Spears”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2023. Lưu ý: Chọn biểu đồ được liệt kê bên trong menu.
  113. ^ a b “Britney Spears – US and Canadian Chart History”. AllMusic. Rovi Corporation. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2013.
  114. ^ “Swedishcharts.com – Britney Spears – Out from Under”. Singles Top 60. Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2011.
  115. ^ “Circus by Britney Spears reviews”. AnyDecentMusic?. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2016.
  116. ^ “Circus by Britney Spears”. Metacritic. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2020.
  117. ^ a b Stephen Thomas Erlewine. “Circus: Britney Spears”. AllMusic. Rovi Corporation. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2013.
  118. ^ a b “Album: Britney Spears, Circus (Zomba/Sony)”. The Independent. Independent Print. 28 tháng 11 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2013.
  119. ^ a b Powers, Ann (30 tháng 11 năm 2008). “Album review: Britney Spears' 'Circus'. Los Angeles Times. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2013.
  120. ^ a b MacBain, Hamish (28 tháng 11 năm 2008). “NME Album Reviews – Britney Spears”. NME. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2013.
  121. ^ Christgau, Robert (7 tháng 10 năm 2024). “CG: Britney Spears”. robertchristgau.com. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2019.
  122. ^ a b Henderson, Eric (25 tháng 11 năm 2008). “Britney Spears: Circus”. Slant Magazine. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2013.
  123. ^ a b Jones, Steve (26 tháng 11 năm 2008). “Britney Spears maximizes her pop appeal in 'Circus'. USA Today. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2013.
  124. ^ “Circus Reviews”. Metacritic. CBS Interactive. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2013.
  125. ^ Koski, Genevieve (8 tháng 12 năm 2008). “Britney Spears: Circus”. The A.V. Club. The Onion. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2013.
  126. ^ Levine, Nick (10 tháng 11 năm 2008). “Notes on the new Britney album”. Digital Spy. Hearst Corporation. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2013.
  127. ^ Christgau, Robert. “CG: Britney Spears”. RobertChristgau.com. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2012.
  128. ^ Pareles, Jon (30 tháng 11 năm 2008). “Critics' Choice – New CDs From – Britney Spears, Akon, Cynic and John Escreet”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2013.
  129. ^ “On Britney Spears's Sadly Generic Circus”. Village Voice. Lewis, Miles Marshall. 10 tháng 12 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2014.
  130. ^ “Virgin Media Music Awards 2008: Best Album”. Virgin Media Music Awards. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2019.
  131. ^ “A-List Award Nominees!”. Bravo. 2 tháng 7 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2021.
  132. ^ “A 2009. évi Fonogram - Magyar Zenei Díj jelöltjei” [Nominees for the 2009 Phonogram - Hungarian Music Award]. Fonogram (bằng tiếng Hungarian). Hungarian Recording Industry Association—Magyar Hanglemezkiadók Szövetsége. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  133. ^ “Jonas Brothers 'win' Worst Album award at Shockwaves NME Awards—The clean-living band have won the award ahead of Razorlight”. NME. BandLab Technologies (BBC). 25 tháng 2 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2021.
  134. ^ “Nominados Premios Oye! 2009”. Blog Telenovelas. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2017.
  135. ^ “Artist Summary – The JUNO Awards”. junoawards.ca. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 1 năm 2015.
  136. ^ “Zprávy a události z domova i ze světa | TN.cz”. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 11 năm 2019.
  137. ^ “AOL Awards”. 4Music. The Box Plus Network. 21 tháng 10 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2021. AOL Awards
  138. ^ Hasty, Katie (10 tháng 12 năm 2008). “Britney's 'Circus' Debuts Atop Album Chart”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2015.
  139. ^ “Week Ending Jan. 25, 2009: Setting A Hot 100 Record – Chart Watch”. Yahoo! Music. Yahoo!. 28 tháng 1 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2013.
  140. ^ “Week Ending Feb. 1, 2009: That's Why They Call Him The Boss – Chart Watch”. Yahoo! Music. Yahoo!. 4 tháng 2 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2013.
  141. ^ a b “Chứng nhận album Hoa Kỳ – Britney Spears – Circus” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2023.
  142. ^ a b “Billboard 200 Albums – Year-End 2009”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2016.
  143. ^ Trust, Gary (24 tháng 3 năm 2015). “Ask Billboard: Britney Spears's Career Sales”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2015.
  144. ^ Williams, John (10 tháng 12 năm 2008). “Britney returns to No. 1”. Canoe Jam!. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2009.Quản lý CS1: URL hỏng (liên kết)
  145. ^ “The Nielsen Company 2008 Canadian Music Industry Report”. Reuters. Thomson Reuters. 7 tháng 1 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2013.
  146. ^ a b “Chứng nhận album Canada – Britney Spears – Circus” (bằng tiếng Anh). Music Canada. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2023.
  147. ^ a b “A Britney Spears ¡Mexicanos le dan Oro!”. Tabasco Hoy. 10 tháng 12 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2013.
  148. ^ a b c “Certificaciones” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas. Nhập Britney Spears ở khúc dưới tiêu đề cột ARTISTA  và Circus ở chỗ điền dưới cột tiêu đề TÍTULO'.
  149. ^ a b c d “Britney Spears – Circus”. aCharts. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2013.
  150. ^ a b “ARIA Charts – Accreditations – 2009 Albums” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2013.
  151. ^ a b “Latest Gold / Platinum Albums” (bằng tiếng Anh). Radioscope. ngày 17 tháng 7 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2013.
  152. ^ “一般社団法人 日本レコード協会|各種統計”. Recording Industry Association of Japan. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2011.
  153. ^ “検索結果-Oricon Style アーティスト/CD検索”. Oricon. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2011.
  154. ^ a b 7, 2008/40/ "Official Scottish Albums Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập December 22, 2016.
  155. ^ “The Circus Album Goes Platinum In The UK”. Britney.com. 12 tháng 6 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2013.
  156. ^ “Tops : Britney déçoit, Quentin surprend”. Charts in France. 2 tháng 12 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2008.
  157. ^ a b Россия Top 25: Андрей Бандера – Не любить невозможно (неделя 07–2009) (bằng tiếng Nga). 2M. 18 tháng 2 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2016.
  158. ^ a b “Top 50 Ξένων Αλμπουμ – Εβδομάδα 10/2009” [Top 50 Foreign Albums – Week 10/2009] (bằng tiếng Hy Lạp). IFPI Greece. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 3 năm 2009.
  159. ^ a b Sexton, Paul (11 tháng 12 năm 2008). “Britney Scores Euro Chart Double”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2016.
  160. ^ a b c “ブリトニー・スピアーズ デビュー10周年記念、全ヒット・シングルを完全網羅する 最強ベスト盤11月25日に全世界同時緊急発売が決定! Japan” (bằng tiếng Nhật). 24 tháng 9 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2019.
  161. ^ Cohen, Jonathan (21 tháng 1 năm 2009). “Parents TV Council Protests Britney Song”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2023.
  162. ^ Cashmere, Paul (5 tháng 12 năm 2008). “Parents Outraged By Britney Spears Song”. Undercover News. Cashmere Media Pty Ltd. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2023.
  163. ^ Adams, Guy (21 tháng 1 năm 2009). “Britney forced to rerecord 'sexually offensive' song”. The New Zealand Herald. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2023.
  164. ^ Kreps, Daniel (5 tháng 12 năm 2008). “Britney News : Song Title Angers Parents, First Husband goes to Jail”. Rolling Stone. ISSN 0035-791X.
  165. ^ Kaufman, Gil (22 tháng 1 năm 2009). “Britney Spears' Suggestive Single 'If U Seek Amy' Edited By Radio Stations”. MTV. MTV Networks. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2023.
  166. ^ Hinckley, David (23 tháng 1 năm 2009). “Z100 needs Britney Spears to clean up”. Daily News (New York). Mortimer Zuckerman. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2023.
  167. ^ Staff Reporter (22 tháng 1 năm 2009). “PTC seeks blackout for "...seek Amy". Radio & Television Business Report. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2023.
  168. ^ Montgomery, James (9 tháng 12 năm 2008). “Britney Spears' 'Circus' Video Taken To Task By PETA, But Trainers Insist Animals Were Treated Well”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2022.
  169. ^ Devlin, Rebekah (7 tháng 11 năm 2009). “Disgruntled fans walk out on Britney Spears concert in Perth”. The Advertiser. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2023.
  170. ^ Shedden, Iain (9 tháng 11 năm 2009). “Britney Spears' mouthpiece, Paul Dainty, gives lip”. The Australian. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2023.
  171. ^ “Britney bites back”. WAtoday. 8 tháng 11 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2023.
  172. ^ “Musicload - Album - Circus”. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2014.
  173. ^ “iTunes – Música – Circus de Britney Spears”. iTunes Store (MX). Apple Inc. 28 tháng 11 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2013.
  174. ^ “Japan CD Britney Spears Circus”. eBay.
  175. ^ “Circus”. store.britneyspears.com. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2016.
  176. ^ “iTunes – Music – Circus (Deluxe Version) by Britney Spears”. iTunes Store (IE). Apple Inc. 28 tháng 11 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2013.
  177. ^ “Circus (Deluxe Version) by Britney Spears - Download Circus (Deluxe Version) on iTunes”. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 11 năm 2009.
  178. ^ “CAPIF – Representando a la Industria Argentina de la Música”. Adminlic.capif.org.ar. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2020.
  179. ^ "Australiancharts.com – Britney Spears – Circus" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập November 28, 2013.
  180. ^ "Austriancharts.at – Britney Spears – Circus" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập November 28, 2013.
  181. ^ "Ultratop.be – Britney Spears – Circus" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập November 28, 2013.
  182. ^ "Ultratop.be – Britney Spears – Circus" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập November 28, 2013.
  183. ^ "Britney Spears Chart History (Canadian Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập November 28, 2013.
  184. ^ "Top Stranih [Top Foreign]" (bằng tiếng Croatia). Top Foreign Albums. Hrvatska diskografska udruga. Truy cập November 28, 2013.
  185. ^ "Czech Albums – Top 100". ČNS IFPI. Ghi chú: Trên trang biểu đồ này, chọn 200850 trên trường này ở bên cạnh từ "Zobrazit", và sau đó nhấp qua từ để truy xuất dữ liệu biểu đồ chính xác. Truy cập December 22, 2016.
  186. ^ "Danishcharts.dk – Britney Spears – Circus" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập November 28, 2013.
  187. ^ "Dutchcharts.nl – Britney Spears – Circus" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập November 28, 2013.
  188. ^ "Britney Spears: Circus" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập November 28, 2013.
  189. ^ "Lescharts.com – Britney Spears – Circus" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập November 28, 2013.
  190. ^ "Offiziellecharts.de – Britney Spears – Circus" (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment Charts. Truy cập December 22, 2016.
  191. ^ “Top 50 Ελληνικών και Ξένων Αλμπουμ – Εβδομάδα 6/2009” [Top 50 Greek and Foreign Albums – Week 6/2009] (bằng tiếng Hy Lạp). IFPI Greece. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 2 năm 2009.
  192. ^ "Album Top 40 slágerlista – 2009. 3. hét" (bằng tiếng Hungary). MAHASZ. Truy cập December 22, 2016.
  193. ^ "GFK Chart-Track Albums: Week 49, 2008". Chart-Track. IRMA. Truy cập December 22, 2016.
  194. ^ "Italiancharts.com – Britney Spears – Circus" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập November 28, 2013.
  195. ^ サーカス | ブリトニー・スピアーズ [Circus | Britney Spears] (bằng tiếng Nhật). Oricon. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2016.
  196. ^ “Britney Spears – Blackout”. mexicancharts.com. Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2013.
  197. ^ "Charts.nz – Britney Spears – Circus" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập November 28, 2013.
  198. ^ "Norwegiancharts.com – Britney Spears – Circus" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập November 28, 2013.
  199. ^ "Oficjalna lista sprzedaży :: OLiS - Official Retail Sales Chart" (bằng tiếng Ba Lan). OLiS. Polish Society of the Phonographic Industry. Truy cập December 22, 2016.
  200. ^ "Portuguesecharts.com – Britney Spears – Circus" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập November 28, 2013.
  201. ^ “Slovenian Album Chart”. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2023.
  202. ^ "Spanishcharts.com – Britney Spears – Circus" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập November 28, 2013.
  203. ^ "Swedishcharts.com – Britney Spears – Circus" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập November 28, 2013.
  204. ^ "Swisscharts.com – Britney Spears – Circus" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập November 28, 2013.
  205. ^ “Ranking de Artistas Internacionales”. Cámara Uruguaya de Productores de Fonogramas y Videogramas. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2020.
  206. ^ "Britney Spears | Artist | Official Charts" (bằng tiếng Anh). UK Albums Chart. Truy cập November 28, 2013.
  207. ^ “ARIA Charts – End Of Year Charts – Top 100 Albums 2008”. Australian Recording Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2009.
  208. ^ “ARIA Charts – End Of Year Charts – Top 50 Dance Albums 2008”. Australian Recording Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2016.
  209. ^ “Rapports Annuels 2008 – Albums”. Ultratop (bằng tiếng Pháp). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2016.
  210. ^ “Album 2008 Top-100”. Hitlisten.NU (bằng tiếng Đan Mạch). Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2014.
  211. ^ “Classement Albums – année 2008”. Syndicat National de l'Édition Phonographique (bằng tiếng Pháp). Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2016.
  212. ^ “Annual Charts – Year 2008: Top 50 Ξένων Αλμπουμ” [Annual Charts – Year 2008: Top 50 Foreign Albums]. IFPI Greece (bằng tiếng Hy Lạp). Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2013.
  213. ^ “Le cifre degli album più venduti nel 2008”. Musica e Dischi. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2019.
  214. ^ “Los Más Vendidos 2008” (PDF). Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas (bằng tiếng Tây Ban Nha). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 15 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2010.
  215. ^ “Los Más Vendidos 2008 (Ingles)” (PDF). Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas (bằng tiếng Tây Ban Nha). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 15 tháng 2 năm 2010.
  216. ^ CD Кириллика Top 10: (2008) (bằng tiếng Nga). 2M. 18 tháng 12 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2023.
  217. ^ “Årslista Album – År 2008”. Sverigetopplistan (bằng tiếng Thụy Điển). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2016.
  218. ^ “End of Year Album Chart Top 100 – 2008”. Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2016.
  219. ^ “Top 50 Global Best Selling Albums for 2008” (PDF). International Federation of the Phonographic Industry. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 7 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2011.
  220. ^ “ARIA Charts – End Of Year Charts – Top 100 Albums 2009”. Australian Recording Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2010.
  221. ^ “ARIA Charts – End Of Year Charts – Top 50 Dance Albums 2009”. Australian Recording Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2016.
  222. ^ “Jahreshitparade Alben 2009”. austriancharts.at (bằng tiếng Đức). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2016.
  223. ^ “Jaaroverzichten 2009 – Albums”. Ultratop (bằng tiếng Hà Lan). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2010.
  224. ^ “Rapports Annuels 2009 – Albums”. Ultratop (bằng tiếng Pháp). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2010.
  225. ^ “Canadian Albums – Year-End 2009”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2018.
  226. ^ “Album 2009 Top-100”. Hitlisten.NU (bằng tiếng Đan Mạch). Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2011.
  227. ^ “Year End Charts – European Top 100 Albums”. Billboard. 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2016.
  228. ^ “Classement Albums – année 2009”. Syndicat National de l'Édition Phonographique (bằng tiếng Pháp). Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2016.
  229. ^ オリコン年間 CDアルバムランキング 2009年度 [Oricon Annual CD Album Ranking 2009]. Oricon (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2016.
  230. ^ “Los Más Vendidos 2009” (PDF). Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas (bằng tiếng Tây Ban Nha). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 15 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2010.
  231. ^ “Los Más Vendidos 2009 (Ingles)” (PDF). Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas (bằng tiếng Tây Ban Nha). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 15 tháng 2 năm 2010.
  232. ^ “Swiss Year-End Charts 2009”. Swiss Charts. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2016.
  233. ^ “UK Year-End Charts 2009” (PDF). UKChartsPlus. tr. 7. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2022.
  234. ^ “Chứng nhận album Argentina – Britney Spears – Circus” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Cámara Argentina de Productores de Fonogramas y Videogramas. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2015.
  235. ^ “Circus Oro Argentina”. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 7 năm 2009.
  236. ^ “Ultratop − Goud en Platina – albums 2008” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Hung Medien. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2013.
  237. ^ "Circus" de Britney Spears já vendeu mais de 1 milhão nos E.U.A”. portalpopline.com.br. 31 tháng 1 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2015.
  238. ^ “Chứng nhận album Brasil – Britney Spears – Circus” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Pro-Música Brasil. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2015.
  239. ^ “La seule et unique @britneyspears fête ses 37 ans aujourd'hui. Retour sur 5 de ses plus grands tubes”. CStar. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2020.
  240. ^ “Chứng nhận album Pháp – Britney Spears – Circus” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 10 năm 2013.
  241. ^ “Chứng nhận IFPI Trung Đông – 2009” (bằng tiếng Anh). IFPI Trung Đông. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2013.
  242. ^ “Gold-/Platin-Datenbank (Britney Spears; 'Circus')” (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2013.
  243. ^ “Ελληνικό Chart – Top 50 Ξένων Aλμπουμ” (bằng tiếng Hy Lạp). IFPI Hy Lạp. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2013.
  244. ^ “Adatbázis – Arany- és platinalemezek – 2009” (bằng tiếng Hungary). MAHASZ. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2013.
  245. ^ “The Irish Charts - 2008 Certification Awards - Platinum” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Âm nhạc Thu âm Ireland. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2022.
  246. ^ “Le cifre degli album più venduti nel 2008” (bằng tiếng Ý). Musica e Dischi. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2019.
  247. ^ “Chứng nhận album Ý – Britney Spears – Circus” (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Chọn "Tutti gli anni" ở menu thả xuống "Anno". Chọn "Circus" ở mục "Filtra". Chọn "Album e Compilation" dưới "Sezione".
  248. ^ “Chứng nhận album Nhật Bản – ブリトニー・スピアーズ – サーカス” (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản. Chọn 2009年1月 ở menu thả xuống
  249. ^ “Wyróżnienia – płyty CD - Archiwum - Przyznane w 2009 roku” (bằng tiếng Ba Lan). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Ba Lan.
  250. ^ “Chứng nhận album Nga – Britney Spears – Circus” (bằng tiếng Nga). Национальная федерация музыкальной индустрии (NFPF). Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2022.
  251. ^ “The Official Swiss Charts and Music Community: Chứng nhận ('Circus')” (bằng tiếng Đức). IFPI Thụy Sĩ. Hung Medien. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2013.
  252. ^ “Chứng nhận album Anh Quốc – Britney Spears – The Circus” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2013.
  253. ^ “Britney Spears • Circus (CD) (2008)”. iMusic (bằng tiếng Đan Mạch). 28 tháng 11 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2022.
  254. ^ “Circus – Britney Spears – CD album” (bằng tiếng Pháp). France: Fnac. 28 tháng 11 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2022.
  255. ^ “Circus – Inclus DVD bonus – Britney Spears – CD album” (bằng tiếng Pháp). France: Fnac. 28 tháng 11 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2022.
  256. ^ “Circus – Britney Spears: Amazon.de: Musik”. Amazon.de. 28 tháng 11 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2017.
  257. ^ “Circus – Deluxe Edition mit Bonus-DVD — incl. Poster – Britney Spears: Amazon.de: Musik”. Amazon Germany. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2017.
  258. ^ “Circus von Britney Spears in iTunes” (bằng tiếng Đức). iTunes Store (DE). Apple Inc. 28 tháng 11 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2017.
  259. ^ “Circus”. Australia: Amazon Music. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2022.
  260. ^ “Circus”. Australia: Amazon Music. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2022.
  261. ^ “Circus – Spears Britney” (bằng tiếng Ba Lan). Poland: Empik. 1 tháng 12 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2022.
  262. ^ “Circus by Britney Spears on iTunes”. iTunes Store (GB). Apple Inc. 28 tháng 11 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2017.
  263. ^ “Circus: Britney Spears: Amazon.co.uk: MP3 Downloads”. Amazon.co.uk. 28 tháng 11 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2017.
  264. ^ “Amazon.com: Circus (Deluxe Version): Britney Spears: MP3 Downloads”. Amazon Music. 2 tháng 12 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2017.
  265. ^ “Britney Spears – Circus – Amazon.com Music”. Amazon Music. 2 tháng 12 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2017.
  266. ^ “Circus by Britney Spears on iTunes”. iTunes Store (US). Apple Inc. 28 tháng 11 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2017.
  267. ^ “Circus : Britney Spears”. HMV. 3 tháng 12 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2017.
  268. ^ “ブリトニー・スピアーズ「Circus」を iTunes で” (bằng tiếng Nhật). iTunes Store (JP). Apple Inc. 28 tháng 11 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2017.
  269. ^ サーカス-デラックス・エディション (CD+DVD, Phiên bản Cao Cấp, Phiên bản Giới Hạn). Amazon.com (JP).
  270. ^ Urban Outfitters [@UrbanOutfitters] (5 tháng 11 năm 2019). “it's here! Circus by @britneyspears is now available on 5k units of clear vinyl with gold and white swirl! bddy.me/2NJ6t1i pic.twitter.com/Xr8Ho4PgRn” (Tweet) (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2019 – qua Twitter.
  271. ^ Britney Spears - Circus (bằng tiếng Anh), lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 2 năm 2023, truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2023
  272. ^ “Britney Spears - Circus [LP] | RECORD STORE DAY”. recordstoreday.com. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2023.
  273. ^ “Circus (Red Vinyl)”. JB Hi-Fi (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2023.
  274. ^ “Britney Spears: Circus (Opaque Red Vinyl) (LP) – jpc”. www.jpc.de (bằng tiếng Đức). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2023.
  275. ^ Spears, Britney (28 tháng 4 năm 2023). “Circus - Spears Britney | Muzyka Sklep EMPIK.COM”. empik.com (bằng tiếng Ba Lan). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2023.
  276. ^ “Britney Spears Circus Vinyl LP Red Colour Due Out 28/04/23”. Assai Records (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2023.

Tài liệu

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]